Thời đại Đồng Trị Từ_Hi_Thái_hậu

Thượng tôn huy hiệu

Năm Đồng Trị nguyên niên (1862), ngày 25 tháng 4 (âm lịch), triều thần định huy hiệu cho Tây Thái hậu là Từ Hi Hoàng thái hậu (慈禧皇太后). Đây chính là lúc bà chính thức có huy hiệu này. Ngày hôm đó, chử chư Vương, Bối lặc, Văn võ đại thần, dâng kim sách thượng tôn huy hiệu.[17][18]

Sách tôn viết:

Đại Thanh quốc Từ Hi Hoàng thái hậu

徽音懋著。璇枢延爱日之晖。彝典推崇。宝篆耀祥云之采。统六宫而瞻壸教。盛德聿昭。合万国而奉母仪。尊称爰晋。钦惟圣母皇太后。道彰坤顺。福茂履祥。温恭夙仰夫令仪。雍肃咸钦夫淑范。躬先节俭。椒庭垂浣濯之型。心矢祗勤。柘馆示织纴之则。侍先帝而柔嘉尽慎。诫懔鸡鸣。越冲人而鞠育维殷。谋诒燕翼。曩昔彤闱敬事。叨懿训之时亲。迄今紫罽欢承。荷恩晖之永托。抚藐躬以缵绍。弥廑志于显扬。绎诗歌顺比之章。慈和普被。释诂详祓褫之义。禧福永膺。谨告天。地。宗庙。社稷。率诸王贝勒文武群臣。敬奉册宝。上尊号曰慈禧皇太后。伏愿蕃祉骈臻。洪厘骏集。合九州之富以为养。尚未尽夫孝思。颂万福之同于无疆。自长延夫令绪。谨言。

...

Huy âm mậu trứ. Toàn xu duyên ái nhật chi huy. Di điển thôi sùng. Bảo triện diệu tường vân chi thải. Thống lục cung nhi chiêm khổn giáo. Thịnh đức duật chiêu. Hợp vạn quốc nhi phụng mẫu nghi. Tôn xưng viên tấn.

Khâm duy Thánh mẫu Hoàng thái hậu. Đạo chương khôn thuận. Phúc mậu lí tường. Ôn cung túc ngưỡng phu lệnh nghi. Ung túc hàm khâm phu thục phạm. Cung tiên tiết kiệm. Tiêu đình thùy hoán trạc chi hình. Tâm thỉ chi cần. Chá quán kỳ chức nhâm chi tắc. Thị tiên đế nhi nhu gia tẫn thận. Giới lẫm kê minh. Việt trùng nhân nhi cúc dục duy ân. Mưu di yến dực. Nẵng tích đồng vi kính sự. Thao ý huấn chi thời thân. Hất kim tử kế hoan thừa. Hà ân huy chi vĩnh thác. Phủ miểu cung dĩ toản thiệu. Di cần chí vu hiển dương. Dịch thi ca thuận bỉ chi chương. Từ hòa phổ bị. Thích cổ tường phất sỉ chi nghĩa. Hi phúc vĩnh ưng.

Cẩn cáo Thiên địa, Tông miếu, Xã tắc, suất chư Vương, Bối lặc, Văn võ quần thần. Kính phụng sách bảo, thượng tôn hào viết: Từ Hi Hoàng thái hậu.

Phục nguyện phồn chỉ biền trăn. Hồng li tuấn tập. Hợp cửu châu chi phú dĩ vi dưỡng. Thượng vị tẫn phu hiếu tư. Tụng vạn phúc chi đồng vu vô cương. Tự trường duyên phu lệnh tự. Cẩn ngôn.

— Sách tôn Từ Hi Hoàng thái hậu

Đồng Trị trung hưng

Đồng Trị Đế

Vai trò của Từ Hi Thái hậu cũng như Từ An Thái hậu lúc này chỉ là đóng con dấu của mình lên các sắc chỉ mà thôi, bởi vì tất cả nội dung và tấu biểu của triều đình đều do Nghị Chính vương cùng Quân cơ xứ soạn thảo cũng như chính thức ban bố. Tuy nhiên, người trực tiếp quản lý con dấu là Từ An Thái hậu, còn vai trò của Từ Hi Thái hậu căn bản là quản lý nội vụ.

Căn cứ theo Thanh cung di văn (清宫遗闻): "Đông Cung trội ở Đức, mà thực sự nắm quản việc đại sự; Tây Cung trội ở Tài, mà việc phê duyệt tấu chương, chi tiệu lợi hại chỉ quản được".[19] Như vậy có thể thấy, Từ An Thái hậu tuy là người bên ngoài không tham quyền thế, nhưng lại là người nắm những đại quyền. Công việc do Từ Hi Thái hậu xử lý đa phần là những việc lặt vặt, chi tiêu sinh hoạt trong cung, ở những việc trọng đại thì phải thông qua quyết định của Từ An Thái hậu. Ngoài ra, vì Từ An Thái hậu ở vị trí chính cung, bây giờ ở phía Đông Noãn các của Dưỡng Tâm điện, thực lực quá rõ ràng, những việc Từ An Thái hậu thấy không cần nhúng tay vào thì đều để cho Từ Hi Thái hậu nhận lãnh, giải quyết ổn thỏa. Bởi cái đánh giá Từ Hi Thái hậu "tài cán" rốt cục là vì bà xử lý ổn thỏa, còn Từ An Thái hậu quản xuyến trên dưới nghiêm ngặt, dẫu Từ Hi Thái hậu cũng không tự tiện làm trái, ấy chính là "Đức" vậy. Điều đó cho ta thấy vai trò của Từ An Thái hậu vô cùng to lớn trong triều.

Trước Chiến tranh Nha phiến, Đại Thanh tự hào là [Thiên triều] và xem thường các nước Tây phương là ngoại di. Sau khi liên quân AnhPháp tới Bắc Kinh thời Hàm Phong, triều đình Đại Thanh buộc phải ký điều ước nhục nhã với họ, và lúc này Hoàng tộc Thanh mới chịu nhìn nhận cải thiện về quân sự. Vài người Mãn như Cung Thân vương Dịch Hân cùng Quế Lương nghĩ đến việc tự cường, bàn với Tăng Quốc Phiên, Lý Hồng ChươngTả Tông Đường. Họ đồng ý với nhau rằng: "Muốn tự cường thì việc luyện binh là quan trọng nhất, mà muốn luyện binh thì trước hết phải chế tạo vũ khí giới", và họ giao cho Lý Hồng Chương thi hành.

Dưới sự lãnh đạo của Tăng Quốc Phiên, Tương Quân liên tiếp giành thắng lợi và cuối cùng đã tiêu diệt quân Thái Bình Thiên Quốc sau trận quyết đấu ở Thiên Kinh (Nam Kinh ngày nay) vào tháng 7 năm 1864. Tăng Quốc Phiên được phong [Nhất đẳng Dũng Nhị hầu], hàm Thái tử Thái bảo. Em trai của ông là Tăng Quốc Thuyên, cùng với Tả Tông ĐườngLý Hồng Chương, cũng được ban thưởng hậu hĩnh. Khoảng năm (1872-1873), lại trấn áp thành công Vân Nam Hồi biến cùng Thiểm Cam Hồi biến. Thế cục hỗn loạn của nhà Thanh dần dần ổn định, sử xưng [Đồng Trị trung hưng; 同治中興].

Tăng Quốc Phiên - chủ trương Vận động tự cường.

Các vấn đề nội vụ thì mỗi lúc một rối ren với nạn quan liêu và tham nhũng. Một thách thức đáng kể đối với Lưỡng cung Thái hậu là sự tha hóa của đội ngũ quý tộc Mãn Châu. Từ khi Đại Thanh lập quốc, các vị trí quan trọng nhất trong triều đình đều được giao cho người Mãn, còn người Hán bị khinh rẻ. Trái với truyền thống, triều đình Mãn Thanh cuối cùng quyết định giao quyền thống lãnh quân đội chống lại Thái Bình Thiên Quốc vào tay Tăng Quốc Phiên - một người Hán. Bên cạnh đó, 2 vị Thái hậu còn bổ nhiệm người Hán vào nhiều vị trí lãnh đạo cấp cao ở các tỉnh phía Nam Trung Hoa. Từ khi buông rèm chấp chính, Lưỡng cung Thái hậu liền tiếp thu Ngự sử Từ Khải Văn ý kiến, lệnh trung thần trong ngoài triều nói thẳng phê bình khuyết điểm; lại tiếp thu Ngự sử Chung Bội Hiền ý kiến, sùng tiết kiệm, trọng danh khí; tiếp thu Ngự sử Biện Bảo Đệ ý kiến, nghiêm thưởng phạt, nghiêm túc lại chế, thận tiến cử. Vào năm đầu triều Đồng Trị, triều đình tổ chức đánh giá bộ máy hành chính. Quan lại thuộc tất cả các cấp phải gửi về Bắc Kinh bản báo cáo hoạt động của mình trong vòng 3 năm gần nhất. Lưỡng cung Thái hậu tự mình đảm nhiệm việc đánh giá, vốn là nhiệm vụ của bộ Lại.

Ngoài ra, Lưỡng cung Thái hậu cũng khuếch trương Dương vụ vận động (洋务运动) hay [Sự vận động tự cường], với mục tiêu là hướng tới giao thiệp và học tập người phương Tây, do Từ An Thái hậu chủ trương cùng Cung Thân vương Dịch Hân và các lãnh đạo khác như Tăng Quốc Phiên, hướng tới trung hưng Đại Thanh. Tăng Quốc Phiên và Lý Hồng Chương tiếp xúc với Dung Hoành (容閎), một sinh viên nghèo ở Ma Cao và là du học sinh đầu tiên ở Mỹ, do một hội truyền giáo trợ cấp, năm 1854 đậu bằng cấp Đại học Yale. Tăng Quốc Phiên phái Dung Hoành qua Mỹ mua máy, ông này thuyết phục Tăng Quốc Phiên gởi 120 thanh niên đi du học. Một số lớn qua Mỹ, ba chục người sang Anh, ba chục qua Pháp, một số nhỏ qua Đức. Phong trào tự cường ngay lập tức gặp nhiều trở ngại.

Khi ấy, Quân đội Đại Thanh đang rất bức thiết cần một cuộc cải cách toàn diện và sâu rộng, và với sự cố vấn của các quan viên, Lưỡng cung Thái hậu cho mua bốn tàu chiến từ nước Anh. Tuy nhiên, những chiến hạm này khi về tới Trung Quốc đã chở theo toàn thủy thủ Anh quốc và chỉ tuân lệnh của chính phủ Anh. Cảm thấy bị xúc phạm, cuộc mua bán lập tức chấm dứt và Trung Quốc gửi trả tất cả tàu chiến về Anh. Một số học giả lấy ví dụ này để lập luận, tuy Từ Hi Thái hậu đã có cái nhìn cởi mở hơn đối với các vấn đề đối ngoại so với các triều đại trước đó, nhưng nhìn chung bà vẫn là người bảo thủ với không nhiều kiến thức về tình hình quốc tế. Bên cạnh đó, vì cho rằng sự ồn ào của tàu hỏa sẽ "Ảnh hưởng đến giấc ngủ của Tiên đế", Lưỡng cung Thái hậu đã cho hoãn thi công các tuyến đường sắt. Thậm chí khi hoạt động xây dựng được khôi phục lại năm 1877 dưới sự gợi ý của Lý Hồng Chương, Từ Hi Thái hậu đã hỏi tàu hỏa có phải do ngựa kéo không[20], chứng tỏ bà không phải là người hiểu rõ về các tiến bộ của khoa học kỹ thuật cũng như tác dụng của chúng. Từ Hi Thái hậu còn đặc biệt cảnh giác với các tư tưởng bình đẳng, tự do của những người du học phương Tây trở về và coi đó là mối đe dọa với sự thống trị của triều đại.

Vụ án Cung Thân vương

Cung Thân vương Dịch Hân - người luôn ủng hộ Từ An Thái hậu trong thời kỳ lưỡng cung thính chính.

Với mối họa Thái Bình Thiên Quốc được dẹp bỏ, Lưỡng cung Thái hậu mới có thể bắt tay vào việc củng cố quyền lực của mình ở trung ương, mà mối lưu tâm hàng đầu lúc đó không khác hơn là vị thế của Cung Thân vương Dịch Hân, người đang đứng đầu hội đồng Quân cơ xứ. Mặc dù đã sát cánh cùng hai vị Thái hậu trong cuộc đảo chính Tân Dậu, cũng như có công tiến cử Tăng Quốc Phiên, nhưng ảnh hưởng và uy tín của Dịch Hân trong triều đình phần nào hạn chế quyền quyết định của Từ Hi, đặc biệt là Cung Thân vương luôn dùng Từ An Thái hậu để trấn áp, khiến Từ Hi nhiều lần bị gạt ra khỏi chính sự.

Năm Đồng Trị thứ 4 (1865), ngày 5 tháng 3 (âm lịch), biên tu Thái Thọ Kỳ (蔡寿祺) buộc tội Cung Thân vương Dịch Hân, nói Vương "ôm quyền nạp hối, làm việc thiên tư kiêu doanh", Lưỡng cung Thái hậu mệnh lệnh điều tra, 7 ngày liền lấy này mục vô quân thượng, miễn đi chức Nghị Chính vương của Dịch Hân. Tuy nhiên, do các đại thần cầu tình, cũng như Từ An Hoàng thái hậu chủ trương, Cung Thân vương vẫn đi lại được trong cung và vẫn giữ các chức vụ quản lý Nội vụ phủ. Đây là lần xích mích đầu tiên giữa Từ Hi Hoàng thái hậu và Cung Thân vương[21].

Trước đây, Cung Thân vương chủ trương Dương vụ vận động là một cuộc vận động giữa triều đình, phái người Trung Quốc sang Tây phương thực hiện du học. Nhiều ý kiến cho rằng Từ Hi Thái hậu cũng có công trong vấn đề này, nhưng xét ra, Từ Hi Thái hậu vốn rất ghét người Tây dương là sự thật rất hiển nhiên, còn thì Từ An Thái hậu thực tế lại là Chân chính quốc mẫu, lại có Cung Thân vương Dịch Hân luôn ra sức dùng biện pháp “Đích thứ chi phân”, nên có thể thấy rất rõ những thành tựu của Dương vụ vận động đều là do Từ An Thái hậu chủ trương. Khi cả hai Thái hậu thùy liêm, Từ An Thái hậu vốn nể trọng Cung Thân vương, nhiều lần đứng về phía ông, trong vấn đề trị vì nhiếp chính này vô hình trung tạo nên liên minh giữa Từ An Thái hậu - Cung Thân vương và cả hai dần áp chế Từ Hi Thái hậu, khiến hầu như Từ Hi Thái hậu chỉ có thể đứng ngoài những sự vụ quan trọng, chỉ quản lý vấn đề nội trị.

Sự mâu thuẫn từ từ vì quyền lợi này, theo nhiều nhận định chính là cơ sở để người đời sau nhận đoán Từ Hi Thái hậu có hiềm khích rất lớn với Từ An Thái hậu vậy, và đây có lẽ chính là lý do lớn để Từ Hi Thái hậu quyết định ra tay với Cung Thân vương. Sự kiện này khiến triều đình nhà Thanh rúng động, nhiều người đã gửi tấu chương kiến nghị phục chức cho Cung Thân vương, còn bản thân Cung Thân vương khi đối chất trước hai vị Thái hậu đã không cầm được nước mắt. Từ Hi Thái hậu đành phải cho ông làm Ngoại vụ sứ, tuy nhiên vẫn không cho phép ông trở về vị trí lãnh đạo Quân cơ xứ. Từ đó, Cung Thân vương Dịch Hân không bao giờ lấy lại vị thế trước kia một lần nữa. Việc hạ bệ Cung Thân vương chỉ sau chưa đầy 4 năm nắm quyền là một vụ án nghiêm trọng, là cơ sở để người đời phán đoán sự ảnh hưởng của Từ Hi Thái hậu trong triều. Tuy vậy, việc bà nắm quyền cũng hết sức khó khăn, vì Từ An Thái hậu với thân phận [Mẫu hậu Hoàng thái hậu] vẫn áp chế bà một bậc.

Vụ án An Đức Hải

Năm Đồng Trị thứ 8 (1869), tháng 7, Thái giám An Đức Hải (安德海), một thân tín của Từ Hi Thái hậu đi Nam hạ nhân danh Hoàng đế đại đôn, thu mua long bào.

Theo Thanh triều quy chế, Thái giám không thể tùy tiện xuất cung, đằng này An Đắc Hải còn đánh trống khoa chiêng, dương dương tự đắc, thản nhiên nhận hối lộ của quan viên, Thuận Thiên phủ lẫn Trực Lệ Tổng đốc đều không dám làm gì. Nhưng đến Sơn Đông, Tuần phủ Đinh Bảo Trinh (丁宝桢) lấy việc Thái giám ra khỏi kinh thành đã vi phạm tổ chế, liền thỉnh chỉ xử trí. Lúc đấy Từ Hi Thái hậu cáo bệnh, Từ An Thái hậu lấy quyền lực tối cao, triệu Cung Thân vương Dịch Hân và Quân cơ đại thần nhất trí cho rằng: “Tổ chế không được ra đều môn, người vi phạm giết không tha, đương ngay tại chỗ tử hình”. Sau đó, Từ An Hoàng thái hậu ra chỉ dụ:

該太監擅離遠出,並有種種不法情事,若不從嚴懲辦,何以肅宮禁而儆效尤?著丁寶楨迅速派委幹員,於所屬地方將六品藍翎安姓太監嚴密查拿,令隨從人等指證確實,毋庸審訊,即行就地正法,不准任其狡飾。如該太監聞風折回直境,即著曾國藩飭屬一體嚴拿正法。倘有疏縱,惟該督撫是問。其隨從人等,有跡近匪類者,並著嚴拿,分別懲辦,毋庸再行請旨。

...

Thái giám tự tiện ra ngoài, cũng là loại không có chiếu dụ cho phép, nếu không nghiêm trị, dùng cái gì để răng đe người trong cung cấm không bắt chước làm theo? Đinh Bảo Trinh nhanh chóng phái ủy viên, với quan viên địa phương đem Lục phẩm Lam Linh thái giám họ An nghiêm mật tra, lệnh những người tùy tùng chỉ chứng xác thật, không cần thẩm vấn, lập tức thi hành tử hình ngay tại chỗ, không chuẩn chừa lại cái loại giảo sức này.

Nếu hắn giảo ngôn, Tằng Quốc Phiên có thể nghiêm trị ngay. Nếu những tùy tùng cũng càn rỡ làm bậy, cướp đi đồ vật, thì cũng nghiêm khắc thu hồi lại, phân biệt trừng phạt, không cần thỉnh chỉ thêm.

— Từ An Hoàng thái hậu ra chỉ xử tử An Đức Hải

Ngày 7 tháng 8, An Đắc Hải ngay lập tức bị xử tử ở ngoài cổng Tây thành Tế Nam, bạo thi 3 ngày, hơn 20 người tùy tùng cũng bị đem đi xử tử. Hành động của Từ An Thái hậu gây nên tiếng vang lớn, được Đồng Trị Đế cũng như triều thần ủng hộ. Hành động của bà lan truyền tới dân gian, trong dân gian có câu ca dao: “Đông Cung ngẫu nhiên hành một chuyện, thiên hạ đều ngạch tay ca tụng” để tán thưởng tầm ảnh hưởng và tài trị quốc của bà. Tuy nhiên vô hình trung bà đã tạo hiềm khích đối với Từ Hi Thái hậu.

Đại hôn và hoàn chính

Đồng Trị Đế ngay từ nhỏ nhận được một sự giáo dục nghiêm khắc của sư trưởng Miên Du và 4 sư phó nổi tiếng do đích thân Từ Hi Thái hậu tuyển chọn. Những người này cố gắng nhồi nhét cho hoàng đế đủ loại kinh sách, từ bài học trị dân trị nước đến đạo làm người. Theo nhiều truyền thuyết, sức ép lớn từ việc học tập cũng như kỳ vọng cao càng khiến vị Hoàng đế trẻ tuổi thêm chán nản và lười biếng. Đặc biệt cuốn dã sử Thanh triều dã sử Đại quan (清朝野史大观) còn chỉ ra việc Đồng Trị Đế ưa thích chơi vui, hưởng lạc hơn là quan tâm học hành. Dẫu vậy, đó cũng chỉ là những truyền thuyết dã sử, được người sau tưởng tượng khi hình dung về Đồng Trị Đế - đang bị trói buộc bởi 2 vị Thái hậu trong cung.

Hoàng hậu A Lỗ Đặc thị

Năm Đồng Trị thứ 11 (1872), Đồng Trị hoàng đế tròn 17 tuổi. Với sự ủng hộ của Từ An Thái hậu, ông chọn Mông Cổ quý tộc nữ A Lỗ Đặc thị làm Hoàng hậu. Khoảng đầu ngày 3 tháng 2, khi tiến hành tuyển tú, Từ An Thái hậu là người đề bạt và đưa A Lỗ Đặc thị dự vào đợt tuyển. Trong khi đó, Từ Hi Thái hậu quyết liệt chọn Phú Sát thị, con gái của Phượng Tú thuộc dòng dõi Phú Sát thị danh môn, đối chọi với Từ An Thái hậu rất gay gắt. Cụ thể quá trình này, trước mắt vẫn không có hồ sơ công khai minh bạch, nhưng cuối cùng Đồng Trị Đế vẫn chọn A Lỗ Đặc thị làm Hoàng hậu, và điều này khiến Từ Hi Thái hậu rất không vui. Còn Phú Sát thị trở thành Tuệ phi.

Hoàng hậu A Lỗ Đặc thị rất không được lòng Từ Hi Thái hậu, vì ông ngoại của Hoàng hậu chính là Trịnh Thân vương Đoan Hoa, người đã bị giết trong Chính biến Tân Dậu khi xưa và là người khiến Từ Hi rất chán ghét. Bên cạnh đó, vị A Lỗ Đặc thị này lại là cháu của Từ An Hoàng thái hậu, vì vợ của Đoan Hoa là cô mẫu của Thái hậu, do đó A Lỗ Đặc thị cũng xem như là thân thích của Từ An, nên Từ Hi điềm nhiên không có chân can thiệp. Bên cạnh đó, vốn Đồng Trị Đế rất thân với Từ An Thái hậu, và cũng rất vừa ý với A Lỗ Đặc thị nên ý tứ Hoàng đế đứng về phía bà, điều này khiến mẹ đẻ như Từ Hi Thái hậu cảm thấy bị phản bội và sỉ nhục. Những vấn đề trên khiến nhiều người cho rằng Từ Hi Thái hậu dần hiềm khích với Từ An Thái hậu.

Ngày 8 tháng 10 năm đó, dâng thêm 2 chữ Đoan Hựu (端佑). Năm thứ 12 (1874), Đồng Trị Đế bắt đầu thân chính. Ngày 9 tháng 2, dâng thêm 2 chữ Khang Di (康颐), toàn xưng Từ Hi Đoan Hựu Khang Di Hoàng thái hậu (慈禧端佑康颐皇太后).

Đồng Trị Đế dành nhiều thời gian ở bên Hoàng hậu hơn bất cứ phi tần nào khác, trong đó có Tuệ phi Phú Sát thị - người mà Từ Hi Thái hậu vốn muốn lập làm Hoàng hậu. Theo nhiều cách nói từ dã sử truyền miệng, A Lỗ Đặc Hoàng hậu có cuộc sống cung đình không mấy vui vẻ, đặc biệt là mối quan hệ với Từ Hi Thái hậu được cho là cực kém. Nếu việc tuyển tú xảy ra, đúng là có mâu thuẫn giữa Lưỡng cung Thái hậu, thì A Lỗ Đặc Hoàng hậu trong tình thế đó bị kẹp giữa 2 vị Thái hậu, phi thường áp lực đè nén. Tuy không hề có bất kì cứ liệu nào nói đến mối bất hòa giữa Hoàng hậu và Từ Hi Thái hậu, song sự truyền miệng của người Bát kỳ đều nhắc đến vấn đề mẹ chồng nàng dâu này. Trong đó, chuyện dã sử được nhắc đến nhiều nhất là việc A Lỗ Đặc Hoàng hậu từng nói:"Tây Thái hậu xuất thân chỉ là một phi tần, nhập cung qua cửa bên. Còn ta là Trung cung Hoàng hậu, được kiệu vào cung qua Đại Thanh môn với lễ đại hôn theo đúng di huấn của tổ tiên".

Tuy nhiên, câu nói này cũng xuất hiện trong truyền khẩu là do Đôn Thân vương Dịch Thông nói với Từ Hi Thái hậu. Đôn Thân vương Dịch Thông nổi tiếng ngay thẳng, không hề để tâm ai có thích lời nói của ông hay không. Khi đó Từ Hi Thái hậu phàn nàn việc Hoàng hậu không nghe lời quản giáo, muốn phế bỏ, Đôn Thân vương liền nói:"Muốn phế người đi từ Đại Thanh môn vào, thì phải do người đi vào từ Đại Thanh môn quyết định". Giải thích một chút, quy chế Đại Thanh nghiêm ngặt, Hoàng hậu được cử hành đại hôn đi từ cổng chính Đại Thanh môn vào, là chủ nhân chân chính của hậu cung, còn phi tần phải đi cửa bên cạnh thành để vào. Ý của Đôn Thân vương là Từ Hi Thái hậu vốn chỉ là phi thiếp, không có tư cách phế truất Hoàng hậu do Hoàng gia tuyển lựa.

Những câu chuyện này, dĩ nhiên vẫn chỉ ở trong phạm vi tin đồn lưu truyền. Nhưng thông qua sự "bằng mặt mà không bằng lòng" giữa Từ Hi cùng liên minh Từ An và Cung Thân vương. Đồng Trị Đế kính Từ An Thái hậu hơn bản thân mẹ đẻ Từ Hi, lại thêm sự xuất hiện của Hoàng hậu A Lỗ Đặc thị, thì cho dù những tin đồn này tuy có thể không chính xác đến chi tiết, song ít nhiều quả thực có sự [căng thẳng] giữa Từ Hi Thái hậu với các thành viên Hoàng thất Mãn Thanh khác. Vào lúc này, Từ Hi Thái hậu chỉ vỏn vẹn ở vai trò [Đế mẫu], vai vế trong Hoàng thất có Từ An Thái hậu áp chế, về phương diện lại có Cung Thân vương danh chính ngôn thuận lãnh đạo Quân cơ xứ, chúng ta có thể hình dung hoàn cảnh bị cản trở đủ đường của Từ Hi Thái hậu.

Đồng Trị Đế băng hà

Trong thời kỳ trị vì ngắn ngủi của mình, Đồng Trị Đế đã có 2 quyết định quan trọng. Một trong số đó là vào mùa hè năm Đồng Trị thứ 12, ngay trong năm tự mình chấp chính, Đồng Trị Đế đã ra lệnh xây dựng lại cung điện mùa hè Viên Minh Viên, vốn đã bị liên quân Anh - Pháp phá hủy trong Chiến tranh Nha phiến lần 2, để dâng lên Từ An Thái hậu và Từ Hi Thái hậu. Một số sử gia nhận xét đây chỉ là cái cớ để Đồng Trị Đế đẩy Từ Hi ra khỏi Tử Cấm Thành, tạo điều kiện cho ông có thể độc lập quyết định chuyện hậu cung. Tuy nhiên, việc thi công gặp trở ngại do quốc khố đã khánh kiệt sau nhiều binh biến, bị các đại thần phản đối. Ngày 17 tháng 8, Cung Thân vương Dịch Hân, Đại học sĩ Văn Tường (文祥) lãnh thêm ba vị Quận vương, ba vị Ngự tiền đại thần, ba vị Quân cơ đại thần cùng một vị Sư phó liên hợp thỉnh tấu, đình chỉ sửa sang Viên Minh Viên. Lưỡng cung Thái hậu phải đích thân điều đình.

Năm Đồng Trị thứ 13 (1874), ngày 10 tháng 11 (âm lịch), Đồng Trị Đế bệnh nặng, Lưỡng cung Thái hậu lại [Tạm lãnh triều chính; 暂览朝政]. Sang ngày 5 tháng 12 (tức ngày 13 tháng 1 năm 1875), Đồng Trị Đế băng hà khi mới 19 tuổi tại Dưỡng Tâm điện.

Theo nhiều truyền thuyết, với sự hỗ trợ của một số tiểu thái giám và bạn thân là Tải Chính (con trai của Cung Thân vương), Đồng Trị Đế đã tìm cách trốn khỏi Tử Cấm Thành, cải trang thành thảo dân và đến tìm vui trong các kỹ viện ở Bắc Kinh. Những cuộc vui chơi của Hoàng đế thường xuyên đến nỗi nhiều người đã biết đến nó và trong cung bắt đầu lan truyền nhiều lời đàm tiếu. Huyền sử cho rằng trong một lần như vậy, Hoàng đế đã mắc bệnh giang mai. Tuy nhiên, các Thái y trong cung tuyên bố ông bị đậu mùa. Dựa trên góc nhìn của y học hiện đại, bệnh giang mai không thể gây ra cái chết nhanh chóng đến vậy. Do đó, các sử gia tin rằng Đồng Trị Đế thực sự đã mất vì bệnh đậu.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Từ_Hi_Thái_hậu http://www.historychannel.com.au/classroom/day-in-... http://db.cssn.cn/sjxz/xsjdk/zgjd/sb/jsbml/qsltzcs... http://db.cssn.cn/sjxz/xsjdk/zgjd/sb/jsbml/qslxfcs... http://www.56.com/u11/v_MjYwNjk3NjI.html http://www.aisixiang.com/data/61667.html http://zhidao.baidu.com/question/6163075.html http://www.britannica.com/biography/Cixi http://www.economist.com/node/21531524 http://www.scaruffi.com/politics/dictat.html http://www.thedailybeast.com/witw/articles/2013/10...